Quyền tác giả, bản quyền, quyền liên quan ngày càng trở thành các thuật ngữ thông dụng trong xã hội, đặc biệt ở trên các trang thông tin của đài truyền hình. Tuy nhiên, đối với đa số dân chúng thì các khái niệm này vẫn còn tương đối lạ lẫm. Thậm chí, có một bộ phận còn nhầm lẫn các khái niệm bản quyền, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp với nhau. Bài viết này sẽ giải thích rõ khái niệm, quy định về quyền tác giả tại Việt Nam theo Luật Sở hữu trí tuệ.

Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam được ban hành từ năm 2005, sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009 và 2019. Từ khi ban hành, Luật SHTT đã phát huy vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật đối với loại tài sản đặc biệt – quyền SHTT.

Tuy nhiên, thực tiễn thi hành cùng với việc hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy Luật SHTT còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập nhất định.

Theo đó, mới đây, ngày 16/6, Quốc hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) và sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2023, trừ quy định về bảo hộ nhãn hiệu là dấu hiệu âm thanh có hiệu lực thi hành từ ngày 14/1/2022, trong khi quy định về bảo hộ dữ liệu thử nghiệm dùng cho nông hóa phẩm có hiệu lực thi hành từ ngày 14/1/2024.

Theo đó, bài viết này hiện tại sẽ chỉ bao gồm các quy định có hiệu lực tại thời điểm tháng 7 năm 2022, có nghĩa là theo quy định của Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ.

Quyền tác giả tại Việt Nam

Khoản 2 Điều 4 Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định: 2. Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.”

Theo đó, quyền tác giả bao gồm những quyền cụ thể mà pháp luật trao cho tác giả hay chủ sở hữu của một tác phẩm.

 Quyền tác giả tại Việt Nam có các đặc điểm như:

  • Đối tượng của quyền tác giả luôn mang tính sáng tạo, được bảo hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
  • Quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm.
  • Hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động.
  • Quyền tác giả không được bảo hộ một cách tuyệt đối.

Quyền tác giả tại Việt Nam bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

Quyền nhân thân bao gồm quyền:

  • Đặt tên cho tác phẩm;
  • Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
  • Công bốtác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
  • Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Quyền tài sản bao gồm các quyền:

  • Làm tác phẩm phái sinh;
  • Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
  • Sao chép tác phẩm;
  • Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
  • Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
  • Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Lưu ý rằng các quyền tài sản phía trên do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ.

Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định bên trên phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Quy định về quyền tác giả tại Việt Nam

Về thời hạn thì các quyền phía dưới quyền tác giả sẽ có thời hạn hiệu lực và bảo hộ khác nhau:

– Các quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm được bảo hộ vô thời hạn.

– Đối với tác phẩm di cảo: thời hạn bảo hộ là 50 năm kể tính từ ngày đầu tiên tác phẩm được công bố.

– Đối với tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh, tác phẩm khuyết danh: thời hạn bảo hộ là 75 năm kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu. Đối với trường hợp tác phẩm chưa được công bố trong thời hạn là 25 năm kể từ khi tác phẩm được hình thành thì thời hạn bảo hộ trong trường hợp này là 100 năm.

– Các loại hình tác phẩm còn lại (văn học – nghệ thuật): thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời.

– Các tác phẩm không thuộc loại hình trên thì thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo sau khi tác giả chết. Trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả, nhiều tác giả cùng sáng tác thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng của tác phẩm qua đời.

Hành vi xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam

Điều 28 Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định rõ những hành vi bị coi là xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam, bao gồm:

“1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.

2. Mạo danh tác giả.

3. Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả.

4. Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.

5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

6. Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này.

7. Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật này.

8. Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật này.

9. Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả.

10. Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

11. Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

12. Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.

13. Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm.

14. Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình.

15. Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo.

16. Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.”

Trường hợp được sử dụng các tác phẩm đã công bố mà không cần xin phép

16 hành vi và trường hợp trên là các hành vi xâm phạm quyền tác giả khi sản xuất, sử dụng, sao chép, công bố,… tác phẩm đã được công bố mà không có sự xin phép đối với tác giả, chủ sở hữu quyền.

Tuy nhiên, việc sử dụng một tác phẩm đã công bố mà không xin phép chủ sở hữu cũng không nhất thiết là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 25 Văn bản hợp nhất 07/VBHN-VPQH 2019 hợp nhất Luật Sở hữu trí tuệ, các trường hợp không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền bao gồm:

  • Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;
  • Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;
  • Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;
  • Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;
  • Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;
  • Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;
  • Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
  • Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;
  • Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;
  • Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.

Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.