Ở phần 1, vụ kiện giữa Diamond và Chakrabarty là một trong những vụ việc đã thay đổi hệ thống Luật sáng chế của Hoa Kỳ. Phần này, vụ kiện nữa giữa Bilski và Kappos cũng là một ví dụ khác.

Bilski v. Kappos (SCOTUS 2010)

Bilski v. Kappos, 561 US 593 (2010), là một vụ kiện được xét xử tại Tòa án Tối cao Hoa Kỳ; khi tòa cho rằng thử nghiệm thẩm định điều kiện của bằng sáng chế không phải là duy nhất; để xác định bằng sáng chế đủ điều kiện. Mà đúng hơn là “một đầu mối hữu ích và quan trọng, một công cụ điều tra; để xác định xem một số sáng chế đã được yêu cầu bảo hộ có được tiến hành theo mục 101.”

Trong khi làm như vậy, Tòa án Tối cao khẳng định việc bác bỏ đơn xin cấp bằng sáng chế; về phương pháp hạn chế rủi ro tổn thất trong một phân khúc của ngành năng lượng bằng cách đầu tư vào các phân khúc khác của ngành đó; trên cơ sở chiến lược đầu tư trừu tượng được đề ra trong ứng dụng không phải là thứ được cấp bằng sáng chế.

Vụ kiện giữa Bilski và Kappos gây ồn ào dư luận. Ảnh: quimbee.com

Tòa án xác nhận phán quyết của Tòa án liên bang liên quan đến vụ kiện của Bilski. Tuy nhiên, họ đã từ chối thử nghiệm thẩm định điều kiện của bằng sáng chế. Tòa án đã bác bỏ bản diễn dịch theo luật định của Tòa án liên bang với từ “quy trình”; phán quyết trong mục 100 (b) là đủ mà không cần mô hình hóa theo luật bằng sáng chế.

Lưu ý: Phần 100 (b) định nghĩa quy trình là “quy trình kỹ thuật hoặc phương pháp; bao gồm cách sử dụng mới của một quy trình, chế tạo, quá trình sản xuất; thành phần của hợp chất hoặc nguyên liệu đã biết”.

Ý kiến từ Tòa án

Tòa án cũng đề cập đến vụ Gottschalk kiện Benson và Parker kiện Flook. Lưu ý rằng, cả hai đã phủ nhận việc phụ thuộc vào thử nghiệm thẩm định của bằng sáng chế; như là thử nghiệm duy nhất để đủ điều kiện cấp bằng sáng chế. Việc loại trừ và phân loại bằng sáng chế phương pháp kinh doanh cũng bị từ chối; bởi vì điều kiện của bằng sáng chế với lý do định nghĩa “quy trình” trong mục 100 (b) bao gồm từ “phương pháp”; từ này có vẻ như được hiểu dưới một số dạng của bằng sáng chế phương pháp kinh doanh.

Mục 273 điều 35 U.S.C. (b) (1) cũng đưa ra biện pháp bảo vệ trước hành vi vi phạm bằng sáng chế của việc sử dụng “phương pháp sản xuất hoặc kinh doanh”. Bằng cách thừa nhận quyền bào chữa; luật định này cũng thừa nhận khả năng của bằng sáng chế phương pháp kinh doanh.

Trong khi đề cập đến đối tượng được yêu cầu bảo hộ của Bilski; tòa đã nhận thấy rằng phương pháp tối ưu hóa hệ thống hóa đơn cố định cho thị trường năng lượng của ông là một ý tưởng trừu tượng và không thể cấp bằng sáng chế được. Mặc dù được hiểu rộng hơn về điều kiện của bằng sáng chế đối với các quy trình; nhưng theo đa số, tòa án đã phán quyết rằng “Tòa án không có ý muốn ngăn cản việc phát triển của Tòa án liên bang về các tiêu chí hạn chế khác, tiếp tục mục đích của Đạo luật Sáng chế và không làm trái với văn bản luật”.

Kết quả vụ kiện

Quan điểm của Justice Kennedy theo số đông (một quan điểm tổng thể của Tòa án thiểu số). Ông lưu ý rằng việc tuân thủ nghiêm ngặt chỉ “thử nghiệm thẩm định điều kiện của bằng sáng chế sẽ nảy sinh nghi ngờ về khả năng cấp bằng sáng chế của phần mềm, kỹ thuật chuẩn đoán y học tiên tiến, sáng tạo dựa trên cách lập trình tuyến tính, nén dữ liệu và điều khiển các tín hiệu kỹ thuật số”. Tuy nhiên “Tòa án không đưa ra tuyên bố về khả năng cấp bằng của bất kỳ sáng hình nào; chưa nói đến việc bất kỳ công nghệ nào được đề cập ở trên từ thời đại thông tin nên hoặc không nên nhận bảo hộ bằng sáng chế.”

Kennedy cũng nói thêm rằng việc loại trừ một số phương pháp kinh doanh không đủ điều kiện của bằng sáng chế; có thể là đúng đắn nếu quy tắc đó dựa trên lập luận rằng; những ý tưởng trừu tượng đơn thuần là không thể được cấp bằng sáng chế. 

-Namneyu-