Bài viết này sẽ đưa ra các lời khuyên về cách bảo vệ bản quyền tại Việt Nam, với hệ thống theo Công ước Berne, được thông qua năm 1886 và được Việt Nam tham gia vào năm 2004.

Thông qua việc ban hành luật, nghị định và thông tư, trong đó có 17 nghị định của Chính phủ và 19 thông tư cấp bộ và liên bộ, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam đã tiến gần hơn đến hệ thống sở hữu trí tuệ của các nước phát triển, đồng thời đạt được các tiêu chuẩn do các hiệp ước sở hữu trí tuệ quy định.

Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã được Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) công nhận là luật sở hữu trí tuệ chính được Việt Nam thông qua.

Luật này đã được sửa đổi bổ sung bởi Luật 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm 2009 (Luật 36), trong đó sửa đổi một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Năm 2018, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 22/2018/NĐ-CP (Nghị định 22), thay thế Nghị định 100/2006/NĐ-CP với các hướng dẫn cập nhật cho nhiều điều khoản tập trung vào quyền tác giả theo Bộ luật Dân sự và Luật Sở hữu trí tuệ. Nghị định có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2018.

Bản quyền là gì?

Bản quyền là tập hợp các quyền có sẵn cho tác giả hoặc người được chuyển nhượng bản quyền (ví dụ: người thừa kế, công ty sản xuất), đối với việc sử dụng các tác phẩm gốc của họ. Bản quyền bảo vệ những sáng tạo trí tuệ được thể hiện vật chất dưới một hình thức cụ thể, theo cách nguyên bản và là kết quả của nỗ lực sáng tạo của tác giả. Dưới đây là ba điều kiện phải được đáp ứng để một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

Sở hữu trí tuệ (SHTT) cũng bao gồm các quyền của công chúng đối với việc sử dụng và tái sử dụng các tác phẩm này trong những điều kiện nhất định. Chủ sở hữu quyền SHTT có các quyền bao gồm sao chép, dịch thuật, phóng tác và sửa đổi, truyền thông tới công chúng và biểu diễn trước khán giả cũng như phân phối, cho thuê và cho mượn các bản sao của tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

Bản chất của một doanh nghiệp thường là việc tạo ra giá trị dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản quyền là trọng tâm của việc sáng tạo. Nó phải được bảo vệ trước bất kỳ ai khác có thể nắm giữ những sáng tạo này. Để bảo vệ sự thể hiện sáng tạo của chính họ, các công ty phải có khả năng chứng minh rằng họ là tác giả. Bằng chứng về quyền sở hữu mà một công ty có được bằng cách đăng ký bản quyền của mình, mặc dù không cần thiết về mặt pháp lý, có thể giúp họ tiết kiệm thời gian và tiền bạc trong trường hợp tranh chấp bản quyền. Ở một số khu vực pháp lý, đăng ký bản quyền là yêu cầu bắt buộc để khởi kiện vi phạm.

Do đó, việc đăng ký luôn được khuyến khích cho các công ty trong tất cả các lĩnh vực, không chỉ ngành công nghiệp sáng tạo. Đây phải là một phần không thể thiếu của một chiến lược kinh doanh tổng thể vững chắc.

Bảo vệ bản quyền tại Việt Nam.

Đăng ký bản quyền tại Việt Nam

Cơ quan tại Việt Nam có thẩm quyền đăng ký bản quyền là Cục Bản quyền tác giả Việt Nam thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Tác phẩm phải được thu âm bằng tiếng Việt với chi phí dao động từ 100.000 đến 600.000 đồng. Những người duy nhất có thể nộp đơn đăng ký quyền tác giả là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả và chủ sở hữu quyền liên quan.

Kể từ khi Nghị định 22 được thông qua, Cục Bản quyền tác giả Việt Nam phải trả lời trong vòng 15 ngày làm việc nếu muốn thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả.

Khoảng thời gian 15 ngày bắt đầu từ ngày nhận được:

  • Bản án hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến tội danh được quy định trong pháp luật về sở hữu trí tuệ; hoặc,
  • Yêu cầu của tổ chức, cá nhân đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan.

Những gì có thể được bảo vệ bởi bản quyền?

Bản quyền chỉ bảo vệ sự thể hiện hữu hình của một ý tưởng, không bảo vệ bản thân ý tưởng đó. Do đó, các ý tưởng và khái niệm không được bảo vệ bản quyền một cách tự động. Dưới đây là bảng những gì có thể được bảo hộ bởi bản quyền ở Việt Nam.

  • Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác: là tác phẩm thể hiện bằng chữ nổi cho người khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự thay cho chữ viết mà các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được bằng nhiều hình thức khác nhau.
  • Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác là tác phẩm thể hiện bằng ngôn ngữ nói và phải được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định.
  • Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu: phần mềm máy tính,…
  • Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng là tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục như: Hội họa, đồ họa, điêu khắc, nghệ thuật sắp đặt và các hình thức thể hiện tương tự, tồn tại dưới dạng độc bản. Riêng đối với loại hình đồ họa, có thể được thể hiện tới phiên bản thứ 50, được đánh số thứ tự có chữ ký của tác giả. Theo đó tác phẩm được thể hiện bởi đường nét, màu sắc, hình khối, bố cục với tính năng hữu ích, có thể gắn liền với một đồ vật hữu ích, được sản xuất thủ công hoặc công nghiệp như: Thiết kế đồ họa (hình thức thể hiện của biểu trưng, hệ thống nhận diện và bao bì sản phẩm), thiết kế thời trang, tạo dáng sản phẩm, thiết kế nội thất, trang trí.
  • Tác phẩm âm nhạc là tác phẩm được thể hiện dưới dạng nhạc nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn.
  • Tác phẩm sân khấu là tác phẩm thuộc loại hình nghệ thuật biểu diễn, bao gồm: Chèo, tuồng, cải lương, múa rối, kịch nói, kịch dân ca, kịch hình thể, nhạc kịch, xiếc, tấu hài, tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật biểu diễn khác.
  • Tác phẩm báo chí là tác phẩm có nội dung độc lập và cấu tạo hoàn chỉnh, bao gồm các thể loại: Phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, phỏng vấn, phản ánh, điều tra, bình luận, xã luận, chuyên luận, ký báo chí và các thể loại báo chí khác nhằm đăng, phát trên báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử hoặc các phương tiện khác.
  • Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh là tác phẩm được thể hiện bằng hình ảnh động kết hợp hoặc không kết hợp với âm thanh và các phương tiện khác theo nguyên tắc của ngôn ngữ điện ảnh. Hình ảnh tĩnh được lấy ra từ một tác phẩm điện ảnh là một phần của tác phẩm điện ảnh đó;
  • Tác phẩm nhiếp ảnh là tác phẩm thể hiện hình ảnh thế giới khách quan trên vật liệu bắt sáng hoặc trên phương tiện mà hình ảnh được tạo ra, hay có thể được tạo ra bằng các phương pháp hóa học, điện tử hoặc phương pháp kỹ thuật khác. Tác phẩm nhiếp ảnh có thể có chú thích hoặc không có chú thích.
  • Tác phẩm kiến trúc là tác phẩm thuộc loại hình kiến trúc, bao gồm: Bản vẽ thiết kế kiến trúc về công trình hoặc tổ hợp các công trình, nội thất, phong cảnh; Công trình kiến trúc.
  • Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học bao gồm họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, các loại công trình khoa học và kiến trúc.
  • Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là các loại hình nghệ thuật biểu diễn như chèo, tuồng, cải lương, múa rối, điệu hát, làn điệu âm nhạc; điệu múa, vở diễn, trò chơi dân gian, hội làng, các hình thức nghi lễ dân gian.

Bản quyền có giá trị trong bao lâu?

Thời hạn của một bản quyền phụ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia. Hầu hết, khoảng thời gian có giá trị cũng tùy thuộc vào từng loại tác phẩm. Ở Việt Nam, nơi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng được bảo hộ quyền tác giả trong 75 năm, kể từ ngày xuất bản lần đầu, theo Luật 36.

Đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng chưa công bố trong thời hạn 25 năm kể từ ngày sáng tác thì thời hạn bảo hộ là 100 năm, kể từ ngày sáng tác.

Các tác phẩm khác được bảo vệ trong suốt cuộc đời của tác giả và trong 50 năm sau khi họ qua đời.

Đối với tác phẩm có nhiều tác giả, quyền bảo hộ sẽ hết hiệu lực vào năm thứ 50 sau ngày mất của đồng tác giả cuối cùng còn sống.

Thời hạn bảo hộ sẽ hết hạn vào ngày 31 tháng 12 của năm mà thời hạn bảo vệ bản quyền kết thúc.