Biện pháp dân sự là một trong những biện pháp quan trọng nhất để thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Bồi thường thiệt hại được coi là biện pháp hữu hiệu nhất không chỉ để xử lý hành vi vi phạm nhãn hiệu mà còn đảm bảo quyền lợi của các bên bị thiệt hại. Khác với quy định về phương pháp xác định thiệt hại của Bộ luật dân sự (giá trị bằng tiền của thiệt hại thực tế), Luật sở hữu trí tuệ 2005 hướng dẫn khá rõ về căn cứ xác định thiệt hại do hành vi vi phạm quyền SHTT gây ra.

Tranh chấp vi phạm nhãn hiệu và bồi thường thiệt hại.

Căn cứ để xác định số tổn thất, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT

Thứ nhất, thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền SHTT phải là những thiệt hại thực tế về vật chất hoặc tinh thần do hành vi vi phạm gây ra.

Vì bản chất nhãn hiệu là dấu hiệu để nhận biết hoặc phân biệt sản phẩm, dịch vụ này với sản phẩm, dịch vụ khác trong cùng lĩnh vực, nên thiệt hại vật chất do hành vi xâm phạm nhãn hiệu là những thiệt hại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và việc sử dụng nhãn hiệu gây ra tổn thất doanh thu hoặc lợi nhuận cũng như các thiệt hại vật chất khác cho phía chủ sở hữu nhãn hiệu.

Việc bồi thường những thiệt hại đó sẽ dựa trên những thiệt hại thực tế. Thiệt hại được coi là thiệt hại thực tế khi đáp ứng đủ ba yêu cầu sau:

  • Thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần mà bên bị thiệt hại phải chịu là có thật.
  • Bên bị thiệt hại có khả năng đạt được lợi ích về vật chất hoặc tinh thần.
  • Sự thiệt hại hoặc mất mát về lợi ích của bên bị thiệt hại sau khi hành vi vi phạm xảy ra so với khả năng thu được lợi ích đó trong trường hợp không có hành vi vi phạm và hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự giảm sút hoặc mất mát của lợi ích.

Thứ hai, nếu phần lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất thì phần lợi nhuận bị đơn thu được do thực hiện hành vi vi phạm quyền SHTT sẽ được áp dụng để làm căn cứ xác định thiệt hại vật chất. Theo đó, Luật Sở hữu trí tuệ đã thống nhất phần lợi nhuận mà bị đơn thu được do vi phạm nhãn hiệu và phần lợi nhuận bị giảm sút mà nguyên đơn phải gánh chịu. Về mặt lý thuyết, quy định này không hoàn toàn phù hợp, tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định thiệt hại do vi phạm nhãn hiệu chỉ mang tính chất tương đối nên việc thay thế vẫn được chấp nhận và được nhiều cơ quan tài phán trên thế giới áp dụng.

Thứ ba, nếu chủ sở hữu nhãn hiệu chứng minh được rằng hành vi vi phạm nhãn hiệu đã gây ra thiệt hại vật chất cho mình thì chủ sở hữu nhãn hiệu hay nguyên đơn trong tranh chấp quyền SHTT chỉ có thể lựa chọn một trong các căn cứ trên để xác định lượng thiệt hại.

Thứ tư, khác với các tranh chấp khác, đối với tranh chấp về vi phạm quyền SHTT, chi phí luật sư được coi là một trong những căn cứ để xác định lượng thiệt hại do vi phạm nhãn hiệu.

Khởi kiện trong việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền đối với nhãn hiệu nói riêng là xu hướng hiện nay nhằm tối ưu hóa lợi ích của chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ. Với việc tài sản sở hữu trí tuệ là tài sản vô hình, việc xác định thiệt hại do hành vi xâm phạm vẫn còn nhiều thách thức trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại vẫn là một trong những cách hiệu quả nhất để bảo vệ quyền SHTT.