Ngày nay, công nghệ đã phát triển nhanh đến mức những thứ mà ta nghĩ là không thể chỉ vài thập kỷ trước đã thực sự tồn tại trong cuộc sống, thay đổi hoàn toàn cách sống của con người. Một trong số đó là công nghệ liên quan đến bộ não con người, còn được gọi là giao diện não hoặc giao diện não-máy (BCI). Tuy nhiên, một số chuyên gia chỉ ra rằng, nếu được phát triển thêm và áp dụng vào thực tế, giao diện não có thể có một số mâu thuẫn với Luật SHTT hiện hành trên thế giới, cụ thể là bằng sáng chế và bản quyền.

Khi nói về Elon Musk – vị tỷ phú giàu thứ 2 thế giới tính đến thời điểm ngày 9 tháng 12 năm 2022 theo bảng xếp hạng tỷ phú giàu nhất của Forbes, ô tô điện và siêu phi thuyền chắc hẳn là một trong những thứ hiện lên đầu tiên trong tâm trí mọi người. Tuy nhiên, đối với các chuyên gia về sinh học và công nghệ, điều đó có thể không hẳn là tất cả về con người của Elon Musk.

Đối với họ, thứ họ nghĩ đến về Elon Musk chính là Neuralink – công nghệ đột phá cho não bộ mà Elon Musk đã phát triển trong những năm gần đây, dự kiến hoàn toàn thay đổi thế giới công nghệ mà ta đang biết đến.

Về cơ bản, dự án Neuralink được xây dựng để phát triển một ‘liên kết’ hoặc cấy ghép thần kinh cho phép người dùng “điều khiển máy tính hoặc thiết bị di động ở bất cứ đâu họ đến”. Mục tiêu ban đầu của công nghệ này là giúp những người bị bại liệt, không điều khiển được mọi bộ phận trên cơ thể mình như, tay chân lấy lại được khả năng hoạt động độc lập thông qua việc điều khiển máy tính và thiết bị di động có liên kết với tay giả, chi giả điện tử.

Các thiết bị này được thiết kế để cung cấp cho mọi người khả năng giao diện dễ dàng hơn thông qua tổng hợp văn bản hoặc giọng nói, để ‘lướt’ trên web hoặc thể hiện sự sáng tạo của họ thông qua các ứng dụng chụp ảnh, nghệ thuật hoặc viết lách.

Không chỉ Elon Musk mà Facebook và những gã khổng lồ công nghệ lớn khác cũng có kế hoạch cho một công nghệ BCI thay đổi thế giới, cho phép giao diện kỹ thuật số hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, Neuralink đã hứng phải nhiều chỉ trích khi một số hình ảnh, video của công ty này thử nghiệm tàn bạo trên thân động vật đã được lan truyền trên mạng xã hội, khiến cho dự án này có nguy cơ bị hủy bỏ vì xâm phạm quyền động vật, cùng với nhiều scandal, tin đồn, chỉ trích khác như lo ngại về việc dính chip máy tính vào não có thể là tiền đề cho sự xâm chiếm của máy tính như hệ thống Skynet trong loạt phim Terminator.

giao diện não và sở hữu trí tuệ, giao diện và sở hữu trí tuệ, não và sở hữu trí tuệ, giao diện não,
Giao diện não và sở hữu trí tuệ

Tuy rằng có nhiều phản đối nhưng có một sự thật khó thể thay đổi là bất kì sự tiến bộ nào cũng cần có sự hi sinh. Nếu ít thì chỉ là những giọt mồ hôi của nhà sáng tạo, nhà sáng chế đến mức trung là mạng sống của những loài vật vô tri, cho đến sự hi sinh của chính bản thân nhân mạng ở các cuộc thử nghiệm thuốc độc, thuốc chữa bệnh, ‘cấy ghép chip’,…

Quyền động vật và quyền con người là yếu tố đáng quan tâm nhưng nếu vì sự hi sinh của một vài sinh vật mà tạo ra công nghệ có thể thay đổi mạng sống của 8,000,000,000 dân trên Trái Đất thì sự hi sinh đó là xứng đáng, đặc biệt khi mà mỗi giây phút trôi qua không có các công nghệ tiến bộ, các liều thuốc mới đó, người dân ở các ngõ ngách không được phủ sóng, phát trực tiếp trên thế giới như Châu Phi đang mất đi mỗi ngày.

Hiện tại, Neuralink dự kiến sẽ ra mắt sản phẩm chính thức trong vòng 6 tháng nữa, tức tháng 6 năm 2023.  

Giao diện não-máy

Giao diện não-máy (BCI), đôi khi được gọi là giao diện não là một đường giao diện trực tiếp giữa hoạt động điện của não và một thiết bị bên ngoài, phổ biến nhất là máy tính hoặc tay chân robot. BCI thường hướng đến việc nghiên cứu, lập bản đồ, hỗ trợ, tăng cường hoặc sửa chữa các chức năng nhận thức hoặc cảm giác-vận động của con người. Việc triển khai BCI bao gồm không xâm lấn (EEG, MEG, EOG, MRI) và xâm lấn một phần (ECoG và nội mạch) đến xâm lấn (mảng vi điện cực), dựa trên mức độ gần của các điện cực với mô não.

Nghiên cứu về BCI bắt đầu vào những năm 1970 bởi Jacques Vidal tại Đại học California, Los Angeles (UCLA) dưới sự tài trợ của Quỹ Khoa học Quốc gia, sau đó là hợp đồng từ DARPA. Bài báo năm 1973 của Vidal đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của giao diện não-máy trong tài liệu khoa học. Do tính dẻo của vỏ não, các tín hiệu từ các bộ phận giả được cấy ghép có thể được não xử lý giống như một cảm biến tự nhiên hoặc kênh hiệu ứng.

Sau nhiều năm thử nghiệm trên động vật, các thiết bị thần kinh giả đầu tiên được cấy vào người xuất hiện vào giữa những năm 1990. Gần đây, các nghiên cứu về tương tác giữa người và máy tính thông qua ứng dụng học máy để thống kê các đặc điểm thời gian được trích xuất từ dữ liệu thùy trán (sóng não EEG) đã đạt được mức độ thành công cao trong việc phân loại trạng thái tinh thần (Thư giãn, Trung lập, Tập trung), trạng thái tinh thần-cảm xúc (Âm tính, Trung tính, Tích cực) và rối loạn nhịp vỏ não.

Các khía cạnh đan xen giữa BCI với Luật Sở hữu trí tuệ

Sự phát triển nhanh chóng của giao diện não đã để lại nhiều lỗ hổng pháp lý tiềm ẩn cần được giải quyết và thực hiện nghiêm túc hơn bởi tất cả các tổ chức liên quan. Cụ thể, chúng ta không nên chỉ tập trung vào những gì mà giao diện não có thể mang lại cho nhân loại mà còn vào những tác động tiềm ẩn của nó, cả tốt và xấu.

Điều này là do giao diện não có thể thúc đẩy khía cạnh sáng tạo vốn là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của tài sản sở hữu trí tuệ như bản quyền, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Với giao diện não, những người khuyết tật, không có khả năng hoạt động, giao tiếp bình thường sẽ có thể nghĩ ra một bài hát, phương pháp, sáng tạo mới mà trước đây họ không thể làm.

Có những cá nhân tài năng bất chấp bất lợi thiên sinh vẫn có khả năng tạo ra những tác phẩm để đời, lưu danh muôn thuở như nhạc sĩ Beethoven mất thính giác. Hiển nhiên, số lượng các vĩ nhân như vậy rất hiếm nhưng số lượng người bị khuyết tật thân thể nhưng không khuyết tật tài năng vẫn có rất nhiều.

Khi những con người đó tạo ra một tác phẩm với sự hỗ trợ của giao diện não, liệu công lao sáng tạo đó có được chuyển dời một phần đến những người tạo nên hệ thống giao diện não như Neuralink đó hay không?

Ở phía khác, khi một công nghệ giao diện não như Neuralink được tạo nên, nó thường bao gồm công sức của nhiều cá nhân. Neuralink được phát triển từ năm 2016, đến thời điểm hiện tại đã được 6-7 năm và sự góp sức của vô số nhà khoa học hàng đầu thế giới, bao gồm cả vị tỷ phú Elon Musk.

Không chỉ liên quan đến công nghệ này mà ngày nay, hầu hết các sáng tạo, dù là dưới dạng âm nhạc, sách, phát minh, v.v., những người sáng tạo thường không chỉ bao gồm 1 cá nhân. Đó là một nỗ lực nhóm với giao diện não là cầu nối trực tiếp não bộ của nhiều thiên tài. Đây là một hình thức tiên tiến hơn nhiều so với sự giao tiếp thông qua mạng xã hội, các thiết bị điện tử vật lí hiện tại.

Thậm chí, dù chỉ liệt kê các nhà khoa học đứng đầu bộ phận nghiên cứu thì vẫn có nhiều đồng tác giả, đồng sáng chế,… cho một công trình khoa học hoặc nghệ thuật. Qua đó, khi có nhiều nhà sáng chế và người sáng tạo trong một loại không gian ảo không có thỏa thuận cụ thể cùng thực hiện một dự án nào đó, rất khó để xác định quyền tác giả hoặc quyền sáng chế vì tất cả những nỗ lực được sử dụng để tạo ra sáng tạo đó đều được hợp nhất trong BCI.

Không chỉ là vấn đề tìm đúng tác giả, nhà sáng chế trong một dự án BCI, nhiều chuyên gia còn chỉ ra nguy cơ tiềm ẩn các ông lớn công nghệ có thể lợi dụng công nghệ để chiếm đoạt tài sản của người sáng tạo.

Kết luận

Giao diện não BCI là một lĩnh vực hoàn toàn mới trong xã hội dù đã được nêu lên lần đầu tiên vào năm 1973 trong một quyển tạp chí khoa học. Như với sự xuất hiện của các thiết bị cơ khí hay động cơ hơi nước, bóng đèn điện khi xưa, sự thay đổi này chắc chắn sẽ tạo nên nhiều biến động trong xã hội.

Nếu ngày xưa nguy cơ mất việc làm là nghiêm trọng nhất thì ngày này, việc tạo nên các khung pháp lý quy định rõ về ảnh hưởng của BCI cũng như tác động, cách giải quyết khắc phục hậu quả, hạn chế của BCI trong việc tiếp cận, ảnh hưởng nhân cách con người,… sẽ là yếu tố quan trọng hơn cả.