Giả sử rằng tất cả các hình ảnh, âm thanh trên mạng đều là mã nguồn mở; bất kỳ ai cũng có thể tải về và sử dụng theo ý muốn của mình. Vậy câu hỏi đặt ra: “Đâu là ảnh của tôi, đâu là ảnh của anh?”. Nếu điều này thực sự diễn ra, những xung đột sẽ trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Bởi lẽ, ai cũng có tâm lý muốn tài sản mình đang có là của riêng bản thân và không ai được phép sử dụng khi chưa có sự đồng ý.
Nếu xét về khả năng tiếp nhận thông tin, ứng ụng công nghệ vào làm việc theo thời đại, tất cả chúng ta đều vi phạm bản quyền ở phương diện nào đó. Chẳng hạn như việc thiết kế đồ họa. Đây là lĩnh vực mà vi phạm bản quyền diễn ra thường xuyên. Một designer trong lúc bí bách không thể thực hiên đúng deadline đã cố ý lấy một hình ảnh trên mạng để đưa vào thiết kế của mình. Hoặc trên một phương diện khác, khả năng lĩnh hội kiến thức về luật bản quyền bị hạn chế cũng sẽ gây ra các hậu quả khó lường.
Mức phạt vì vi phạm bản quyền thường rất cao nhưng lại rất ít người quan tâm đến điều này. Nghiêm trọng hơn nữa là khi bị khởi kiện, dù có chứng minh là vô ý, chủ thể tác phẩm vẫn có quyền đệ đơn khởi kiện bạn phải bồi thường. Cao hơn nữa là đối với doanh nghiệp có thể sẽ xóa bỏ cả website.
Hoạt động nào là vi phạm bản quyền?
a, Lấy ảnh trên Google phục vụ mục đích cá nhân
Thông thường, khi tìm kiếm hình ảnh trên Google, các kết quả trả về đều sẽ kèm theo đường dẫn đến những website chứa hình ảnh đó. Giống như bài viết này, nếu bạn tìm kiếm hình ảnh bên trên, Google sẽ tự động đưa bạn tới trang web của Vietnam IP Law. Tất nhiên, bạn không được phép tải ảnh về nhằm đáp ứng hoạt động thương mại.
Một cách đơn giản để có thể tránh lỗi vi phạm bản quyền hình ảnh trên Google là bạn cần kiểm tra giấy phép hình ảnh. Nếu bức hình được cấp phép Creative Commons (tác phẩm có thể được sử dụng lại với mục đích thương mại hoặc phi thương mại) hoặc được lưu trữ trên các website cộng đồng, những trang cho phép tải miễn phí, bạn hoàn toàn có thể sử dụng chúng mà không cần quá lo lắng về việc vi phạm.
Tuy nhiên, điều cần làm là phải kiểm tra giấy phép hình ảnh hoặc bỏ tiền để sử dụng.
b, Xem phim miễn phí
Vấn đề về phim ảnh vẫn luôn trong tình trạng đáng báo động về bản quyền. Cụ thể, các chương trình truyền hình hay phim điện ảnh đều là sản phẩm của sự sáng tạo. Các chương trình, phim ảnh đều được trình chiếu độc quyền tại các kênh thông tin nhất định; người xem thường sẽ phải bỏ một số tiền nhất định để thưởng thức nội dung này. Tuy nhiên, những sản phẩm này lại xuất hiện phần lớn trên các trang mạng xã hội như youtube, facebook,… và đối tượng đưa chương trình đó lên sẽ thu tiền từ việc quảng cáo.
Đơn giản việc xem phim miễn phí nghĩa là bạn sẽ không phải bỏ bất kỳ đồng nào để có thể thưởng thức đầy đủ nọi dung với chất lượng tốt. Tuy nhiên, phim hay chương trình đều được pháp luật bảo vệ để không bị sao chép khi chưa có sự đồng ý của chủ sở hữu. Do đó, người xem phim không phải từ chính nhà sản xuất cung cấp là điều bất hợp pháp.
c, Nghe nhạc
Vấn đề vi phạm bản quyền âm nhạc cũng khiến nhà sản xuất thất thoát hàng tỷ đồng. Trước đây, vi phạm bản quyền âm nhạc tồn tại dưới hình thức các băng cassette hoặc đi CD được sao chép lậu. Từ khi công nghệ kỹ thuật phát triển, máy tính, internet lại là công cụ chính tiếp tay cho nhạc lậu. Nhiều người vẫn luôn cho rằng điều này là bình thường bởi ai cũng có thể tải nhạc từ bất kỳ nguồn mở nào.
Việc vi phạm này không chỉ gây thiệt hại kinh tế mà còn gây nhức nhối tới các nghệ sỹ biểu diễn. Người dùng vẫn luôn tự ý thức tải nhạc từ các website không chính thống vì không phải trả tiền. Tuy nhiên, việc tải nhạc rất có khả năng bị dính virus, hoặc gặp các vấn đề về bảo mật cá nhân.
d, Sao chép tác phẩm
Theo điểm a khoản 1 điều 25 quy định tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu, giảng dạy của cá nhân là một trong những trường hợp được sử dụng mà không phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao. Ngoài điều trên, các hành vi sao chép nhằm mục đích lợi nhuận đều bị coi là vi phạm bản quyền. Ví dụ, quyền tác giả bị xâm phạm trong trường hợp giảng viên, sinh viên nghiên cứu khoa học.
Điển hình như việc giáo viên hướng dẫn sinh viên, học viên làm luận văn, nghiên cứu sinh… Sau khi hoàn thành công trình, giảng viên hướng dẫn lẫn công bố công trình của học viên, sinh viên của mình làm công trình nghiên cứu khoa học, dùng vào mục đích kinh tế, mục đích chính trị. Thậm chí, xuất hiện tình trạng cán bộ, giảng viên sử dụng đề tài, công trình nghiên cứu khoa học để lấy thành tích cho cá nhân trong quá trình công tác.
-Thang Nguyen-