Fair Use là một nguyên tắc pháp lý tại Hoa Kỳ, cho phép việc sử dụng các tác phẩm được bảo vệ bản quyền mà không cần sự cho phép của chủ sở hữu bản quyền trong một số trường hợp cụ thể. Nguyên tắc này cho phép người dùng sử dụng các tác phẩm có đăng ký bản quyền một cách hợp lý mà không vi phạm quyền của chủ sở hữu bản quyền.

Nguyên tắc Fair Use, một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong lĩnh vực bản quyền tại Hoa Kỳ, là một tiêu chí pháp lý giúp cân bằng giữa quyền lợi của người tạo ra tác phẩm và quyền lợi của người sử dụng tác phẩm. Các yếu tố như mục đích sử dụng, tính chất của tác phẩm, lượng sử dụng và ảnh hưởng đối với thị trường được xem xét cẩn thận để đánh giá xem việc sử dụng tác phẩm bản quyền có phù hợp với nguyên tắc này hay không.

Thông thường, việc sử dụng tác phẩm được bảo hộ bản quyền theo nguyên tắc Fair use sẽ được đánh giá trên 4 tiêu chí gồm:

  • Căn cứ vào mục đích và đặc điểm sử dụng, tức phi lợi nhuận hay cho mục đích thương mại.
  • Tác phẩm có được bảo hộ bản quyền chính thức hay không.
  • Số lượng và tần suất sử dụng tài liệu.
  • Việc sử dụng không ảnh hưởng đến hình thức thể hiện của tác phẩm gốc.

Hình thức sử dụng tác phẩm có bảo hộ bản quyền qua Fair Use

Một số hình thức sử dụng tác phẩm được bảo hộ bản quyền qua Fair Use một cách hợp lí gồm:

Giáo Dục và Nghiên Cứu:

  • Giáo viên sử dụng một phần nhỏ của một sách trong lớp học để giảng dạy.
  • Nghiên cứu viên trích dẫn các đoạn văn ngắn từ một tác phẩm trong bài nghiên cứu của họ.

Báo Cáo và Phê Bình:

  • Người viết báo cáo hoặc đánh giá về một cuốn sách sử dụng các trích dẫn nhỏ để minh họa điểm của họ.
  • Một nhà phê bình điện ảnh sử dụng các clips ngắn từ một bộ phim để minh họa các ý kiến của họ.

Sáng Tạo và Biểu Diễn:

  • Nghệ sĩ sử dụng một bức tranh hoặc một số tác phẩm nghệ thuật để tạo ra một tác phẩm mới có tính sáng tạo và gián tiếp bình luận về tác phẩm gốc.
  • Nhạc sĩ sử dụng một phần nhỏ của một bản gốc để tạo ra một bản remix mới hoặc một ca khúc sáng tác mới.

Tin Tức và Báo Chí:

  • Báo chí trích dẫn từ các tài liệu hoặc tuyên bố bản quyền để báo cáo tin tức hoặc sự kiện hiện tại.
  • Chương trình tin tức sử dụng đoạn video ngắn từ các nguồn tin tức khác để báo cáo về một sự kiện.

Hài kịch và Châm biếm:

  • Nhà làm phim tạo ra một phiên bản parody của một bộ phim nổi tiếng, sử dụng các yếu tố của bản gốc để tạo ra một tác phẩm hài hước mới.
  • Người viết kịch bản viết một bài hát châm biếm sử dụng nhạc và lời bài hát của một ca khúc nổi tiếng nhưng thay đổi lời để tạo ra một ý nghĩa mới.

Lưu ý rằng việc đánh giá xem một trường hợp sử dụng có thể được coi là hợp lý theo nguyên tắc Fair Use thường phụ thuộc vào các yếu tố cụ thể của từng trường hợp và có thể đòi hỏi sự xác nhận từ tòa án nếu có tranh chấp.

Về cơ bản, để sử dụng nguyên tắc Fair Use và được công nhận hợp pháp, hợp lí thì người sử dụng cần tôn trọng nguyên tắc phi lợi nhuận trong việc sử dụng và sự tôn trọng đối với tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm.

Nguyên tắc Fair Use trong Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam

Tại Việt Nam, khác với Hoa Kỳ, chưa có một hệ thống nguyên tắc sử dụng hợp lí nào chính thức tương tự như Fair Use. Luật bản quyền Việt Nam tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi của tác giả và chủ sở hữu bản quyền, ít có điều khoản linh hoạt như Fair Use. Điều này đã tạo ra một số thách thức đối với việc sử dụng tác phẩm trong các tình huống như giáo dục, nghiên cứu, và sáng tạo.

Sự giới hạn này tạo ra một cản trở đáng kể đối với sự phát triển của đất nước, để lại hậu quả tiềm tàng trong tương lai cần sớm được giải quyết dứt điểm trong bản sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ tiếp theo.

Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu này có thể trở thành một thách thức đáng kể đối với Việt Nam khi Việt Nam đang đối diện với thách thức tìm điểm cân bằng giữa việc khuyến khích sáng tạo và bảo vệ quyền lợi của người sáng tạo tác phẩm.

Sự phát triển của việc bảo vệ quyền lợi của cả người sáng tạo và người sử dụng cần sự cân nhắc kỹ lưỡng và có thể đòi hỏi sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật tại Việt Nam để phản ánh đúng nguyên tắc Fair Use trong thực tiễn.

Dù không được ghi nhận chính thức, pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ hiện hành cũng có điều khoản với nội dung tương tự, thể hiện tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2022:

“Điều 25. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

a) Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;

b) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;

c) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;

d) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;

đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;

e) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;

g) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;

h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;

i) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;

k) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;

l) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;

m) Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm theo quy định tại Điều 25a của Luật này.

2. Việc sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

3. Việc sao chép quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Ngoài các trường hợp trên, Điều 25a Luật Sở hữu trí tuệ 2022 cũng quy định về các trường hợp không xâm phạm bản quyền dành cho người khuyết tật.